Ba cõi lăng
xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm,
chẳng lập văn tự.
Có người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?
Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông,
tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi. Nếu tôi không có tâm thì lấy
đâu biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm
sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là tâm của ông đó.
Từ lũy kiếp đến
giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều
là cái tâm vốn có của ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính tâm là
Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể
được. Nếu lìa tâm này mà tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng.
Tánh chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là nghĩa của
tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được
thì thật là không tưởng.
Phật và Bồ-Đề ở chỗ
nào? Ví như có người dang tay bắt hư-không có được gì không? Vì sao
thế? Vì hư-không chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng được, bỏ cũng
chẳng được. Thế là hư-không không thể bắt được. Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt
rồi không được cũng giống như vậy.
Phật là tự tâm làm ra. Tại sao
lìa tâm mà tìm Phật? Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật, Phật
tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Nếu nói
ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu? Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra
cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của
mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do; nếu không tin hiểu
như thế, để tự dối gạt thật là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng
sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết tự
tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.
Phật chẳng độ Phật,
nếu đem tâm tìm Phật là chẳng biết Phật là chỉ tự tâm
Những người đi tìm Phật, hết thẩy đều chẳng biết tự tâm là Phật. Cũng
chớ nên đem Phật lễ Phật, đem tâm niệm Phật. Phật chẳng tụng
kinh, chẳng giữ giới, chẳng phạm giới. Phật không có giữ và phạm,
cũng chẳng tạo thiện tạo ác. Nếu chẳng thấy tánh; niệm Phật, tụng
kinh, ăn chay, giữ giới cũng không ích lợi gì. Niệm
Phật chẳng qua được nhân quả, tụng kinh chẳng qua được thông
minh, giữ giới chẳng qua được sanh lên cõi trời, bố
thí chẳng qua được phước báo. Tìm Phật quyết định không thể
được.
Nếu tự mình không
thấu suốt, thì phải nên tìm tham học với thiện tri thức nào
đã dứt khoát nguồn cội sanh tử. Nếu chẳng thấy tánh thì không được
gọi là thiện tri thức. Nếu không như thế dẫu cho có giảng được hết
cả kinh Phật cũng chẳng khỏi sanh tử luân hồi, vẫn ở trong ba
cõi chịu khổ mãi mãi.
Xưa có Tỳ-kheo Thiện
Tinh giảng được hết cả kinh Phật nhưng vẫn chẳng chịu khỏi luân hồi,
cũng chỉ vì chẳng thấy tánh. Thiện Tinh đã như thế, người nay bất quá
giảng được năm ba bốn kinh luận rồi vội cho là mình thực hành
pháp Phật, đó là thuộc về hạng người mê. Nếu chẳng biết tự tâm, chỉ tụng
theo suông mặt chữ của kinh đều là vô dụng. Nếu muốn tìm Phật phải nên thấy
tánh. Tánh tức là Phật, Phật tức là người tự tại rảnh rang vô sự.
Nếu chẳng thấy tánh, suốt ngày chật vật rong ruổi ra ngoài mà tìm,
tìm làm sao được? Tuy không một vật có thể được, nhưng nếu muốn cầu tỏ ngộ cũng
phải nên tham học với thiện tri thức. Phải thiết tha cần khổ mà
cầu đến bao giờ được tỏ ngộ bổn tâm.
Sanh tử việc
lớn, không được phép để luống trôi qua, tự dối gạt vô ích. Dẫu có của
quí như non, quyến thuộc như cát sông Hằng, mở mắt thấy
đó, khi nhắm mắt rồi ra sao? Phải biết các pháp hữu vi đều như giấc
mơ, như huyễn hoá.
Nếu chẳng gấp tìm thầy học đạo, luống
uổng một kiếp trôi qua.
Tuy rằng tánh Phật
ai cũng vốn tự có, nhưng nếu chẳng nhờ Thầy chỉ giáo rốt không thể tỏ ngộ. Những
bật chẳng nhờ Thầy mà tỏ ngộ chỉ là hy hữu trong muôn một mà thôi. Nếu
tự mình được nhân duyên hợp ý Thánh thì không cần phải tham
học với thiện tri thức; trường hợp này gọi là sanh ra đã biết
còn hơn vậy.
Nếu chưa được tỏ
ngộ phải nên cần khổ tham học, nương nơi giác mới được ngộ. Nếu đã ngộ
rồi chẳng học chẳng sao, không đồng với người mê.
Nếu chưa minh
bạch được đen trắng mà kỳ vọng nói tuyên bày giáo pháp của Phật,
chê Phật kỵ Pháp. Những bọn như thế, thuyết pháp như thế, hết thảy đều
là ma nói, không phải Phật nói, tức là ma vương, đệ tử của họ
là ma dân. Người mê chịu cho chúng nó chỉ huy chẳng được giác
ngộ, đoạ vào biển sanh tử chỉ vì chẳng thấy tánh, vọng xưng là Phật.
Bọn chúng sanh như thế là đại ma vương, gạt gẫm tất cả chúng
sanh cho vào cõi ma.
Nếu chẳng thấy
tánh, dẫu cho giảng được hết cả kinh Phật đi nữa cũng chẳng qua là ma nói,
là quyến thuộc nhà ma, chẳng phải đệ tử của Phật. Đã chẳng
biện được đen trắng thì căn cứ nơi đâu mà khỏi sanh tử.
Nếu đã thấy tánh tức
là Phật chẳng thấy tánh tức là chúng sanh. Nếu lìa tánh chúng
sanh mà riêng có tánh Phật có thể được, vậy Phật hiện ở chỗ nào?
Như thế, tánh chúng sanh là tánh Phật. Ngoài tánh không Phật,
Phật tức là tánh, ngoài tánh này không có Phật nào có thể được. Ngoài Phật cũng
không có tánh nào có thể được.
Hỏi: Nếu chẳng thấy tánh, niệm Phật, tụng kinh, bố
thí, giữ giới, tinh tiến, mở rộng phúc duyên, có được thành
Phật không?
Đáp: Không
!
Hỏi: Vì sao không được?
Đáp: Nếu có chút pháp nào có thể được
là pháp hữu vi, là pháp nhân quả, là pháp thọ báo, là pháp
luân hồi, không khỏi sanh tử, biết chừng nào mà thành Phật!
Muốn thành Phật phải
thấy tánh. Nếu chẳng giác ngộ bổn tánh thì nói những nào nhân, nào quả
đều là pháp ngoại đạo. Nếu là Phật thì chẳng tập theo pháp ngoại đạo.
Phật là người
không nghiệp, không nhân quả, nếu nói có chút pháp có thể được đều là chê
bai Phật đó! Căn cứ nơi đâu mà được thành Phật? Dẫu cho chỉ trụ chấp một tâm, một
năng, một giải, một thấy cũng đều bị Phật chẳng thừa nhận. Phật không giữ
và phạm. Tâm tánh vốn không, cũng không phải các pháp dơ sạch, không
tu không chứng, không nhân không quả. Phật chẳng giữ giới, chẳng tu
thiện, chẳng tạo ác, chẳng tinh tiến, chẳng giải đãi. Phật là người vô
tác, nếu có tâm đắm chấp để thấy Phật là bị không thừa nhận rồi! Phật
chẳng phải Phật, đừng làm ra hiểu Phật, nếu chẳng thấy nghĩa này thì luôn luôn ở
đâu cũng đều là mê muội bổn tâm, nếu chẳng thấy tánh mà luôn tưởng tượng
ra làm cái rảnh rang (vô tác), đó là tội nhân lớn, là người
si, rơi vào ngoan không vô ký, ngây ngây như người say, chẳng phân được
tốt xấu.
Nếu muốn tu theo pháp vô tác trước
phải thấy tánh, rồi sau dứt các duyên lự nơi tâm. Nếu chẳng thấy tánh mà được thành
Phật, thì thật là chuyện tưởng tượng.
Có người bác cho rằng
không nhân quả, tha hồ mà tạo nghiệp ác, vọng nói vốn
không, làm ác không tội, con người như thế sẽ đọa vào địa ngục
Vô Gián tối tăm mãi mãi. Nếu là người trí không nên hiểu như thế.
Hỏi: Đã nói dầu cho làm lụng, hoạt động, lúc
nào cũng đều là bổn tâm. Vậy khi vô thường đến với sắc
thân sao lại chẳng thấy bổn tâm?
Đáp: Bổn tâm lúc nào
cũng hiện bày, chỉ tại ông chẳng thấy.
Hỏi: Lúc nào cũng hiện bày, vì sao chẳng thấy?
Tổ sư nói: “Ông có từng nằm
mơ lần nào không?”
Đáp: Có.
Hỏi: Khi ông nằm mơ có phải là bổn thân của ông không?
Đáp: Phải.
Lại hỏi: Ông nói năng hoạt động với ông là một hay
khác?
Đáp: Không khác.
Nói: Nếu đã chẳng
khác thì thân của ông đây cũng chính là pháp thân vốn có của ông đó.
Chính ngay pháp thân này là bổn tâm của ông đó. Tâm này từ lũy
kiếp đến giờ vẫn y nguyên như thế, chưa từng có sanh tử. Chẳng
sanh chẳng diệt; chẳng thêm chẳng bớt; chẳng dơ chẳng sạch; chẳng tốt chẳng xấu;
chẳng đến chẳng đi; chẳng phải chẳng quấy; chẳng tướng nam tướng nữ; cũng không
phải tướng tục tướng tăng; không già không trẻ; không thánh không phàm; không
Phật không chúng sanh; không tu không chứng; không nhân quả; không
gân lực, không tướng mạo cũng như hư không, bắt chẳng được, bỏ
chẳng được, núi sông gành đá không chướng ngại được, hiện ẩn qua lại tự
tại thần thông, suốt năm uẩn, vượt sanh tử, tất cả nghiệp
chướng đối với pháp thân cũng đều không thể trói buộc được.
Tâm này rất vi diệu khó thấy, chẳng đồng với cái tâm nghiệp chướng do trần
cảnh tạo nên.
Cái pháp
thân, tâm tánh này ai ai cũng sẵn có. Trong tâm ấy động tay máy
chân nhất nhất đều không lìa, nhưng khi hỏi đến đều không thể nói được,
giống như người gỗ. Hết thảy đều tự mình thọ dụng nhưng sao lại
không biết?
Phật nói: Tất cả chúng
sanh đều là mê muội, vì thế nên tạo nghiệp đọa vào sanh tử, muốn
ra rồi lại vào, chỉ vì chẳng thấy tánh. Chúng sanh nếu chẳng mê tại
sao khi hỏi đến việc trong tâm tánh thì lại không có một người biết
được? Tự mình động tay máy chân sao mình không biết? Cho nên biết Thánh
nhân nói không lầm, vì người tự mê muội. Nên biết tánh này rất khó tỏ,
chỉ có Phật mới được tỏ ngộ thôi; hết thảy người, trời, chúng sanh đều
không tỏ suốt.
Nếu có trí tuệ tỏ
suốt được tâm này thì gọi là pháp tánh, cũng gọi là giải
thoát, sanh tử không trói buộc được, tất cả pháp
không chướng ngại được, thế gọi là Đại Tự Đại
Vương Như Lai. Cũng gọi là không thể nghĩ bàn, cũng gọi là Thánh thể, cũng
gọi là trường sanh bất tử, cũng gọi là đại tiên. Danh tuy chẳng đồng,
thể vẫn là một, bực Thánh nhơn nói ra dẫu có muôn bàn phân biệt cũng
đều chẳng lìa tự tâm. Tâm lượng rộng lớn ứng dụng vô
cùng, ứng ra mắt thấy sắc, ra tai nghe tiếng, ra mũi biết mùi, ra lưỡi
biết vị, cho đến hết thảy hành tung hoạt động cũng đều
là tự tâm. Bất cứ lúc nào, chỉ có bặt đường ngôn ngữ tức
là tự tâm.
Nên nói sắc Như
Lai vô tận, trí huệ cũng vô tận. Sắc vô tận là tự
tâm, tâm khéo hay phân biệt tất cả pháp, nhẫn đến tất cả hành
tung hoạt động cũng đều là trí huệ. Tâm không hình tướng nên trí
huệ cũng vô tận. Nên nói sắc Như Lai vô tận, trí huệ cũng
như thế. Còn cái thân tứ đại tức là cái thân phiền
não thân sanh diệt. Pháp thân thường trụ không chỗ trụ; Pháp
thân của Như Lai thường chẳng thay đổi nên kinh nói: Chúng
sanh nên biết tánh Phật vốn tự có; ngài Ca Diếp chỉ ngộ được bổn
tánh mà thành Phật. Bổn tánh tức là tâm; tâm tức là tánh, tánh với tâm chư
Phật không hai, Phật trước Phật sau chỉ truyền tâm này, ngoài tâm này
không có Phật nào cả, chúng sanh điên đảo chẳng biết tự
tâm là Phật, dong ruỗi ra ngoài mà tìm, suốt ngày chật vật niệm
Phật, lễ Phật, vậy Phật ở đâu? Chớ nên hiểu như thế, làm như thế. Chỉ biết
bổn tâm, ngoài tâm không có Phật nào khác. Kinh nói: Phàm cái gì có
tướng điều là hư vọng.
Lại nói: Phật ở
đâu? Chỗ nào không Phật? Tự Tâm là Phật; Chẳng nên đem Phật lễ
Phật, dẫu có tướng Phật hoặc tướng Bồ-Tát hiện tiền cũng quyết định chớ
nên lễ kỉnh. Tâm ta vắng lặng vốn không có tướng như thế. Nếu chấp
tướng tức là ma, đều rơi vào tà đạo, nếu là huyễn từ tâm khởi,
lại càng không nên lễ, lễ là không biết, biết thì chẳng lễ. Nếu lễ là bị ma nhiếp.
Sợ hậu học chẳng
biết nên phải biện bạch như thế này. Các Phật, Như Lai, trên bổn
tánh đều không có tướng như thế; phải nên chú ý. Khi thấy cảnh giới lạ, quyết
định không nên chấp, cũng đừng sanh sợ hãi, chẳng cần nghi hoặc.
Tâm ta bổn lai thanh tịnh, đâu có tướng như thế! Nhẫn đến tướng Thiên
Long, Dạ xoa, quỷ thần, Đế Thích, Phạm Vương v.v… đi nữa,
cũng chẳng nên sanh tâm kỉnh trọng, cũng đừng sợ hãi. Tâm ta bổn
lai vắng lặng, tất cả tướng đều là tướng hư vọng, chỉ đừng chấp
tướng là hơn.
Nếu khởi
tâm thấy Phật thấy pháp và thấy các tướng Bồ-Tát mà sanh kỉnh trọng, tức
là tự đọa vào trong chúng sanh. Nếu muốn liền được tỏ ngộ, chỉ đừng nhận một
pháp nào là được. Không cần nói gì thêm.
Nên kinh nói: Phàm
cái gì có tướng đều là hư vọng, đều không có thật. Huyễn không có tướng nhất
định, là pháp vô thường. Chỉ đừng chấp tướng là hợp với ý thánh.
Nên kinh nói: Lìa tất cả tướng là danh hiệu chư Phật.
Hỏi: Tại sao không được lễ Phật, Bồ-Tát?
Đáp: Thiên ma Ba-Tuần. A-tu-la cũng hiện thần
thông làm được tướng Bồ Tát và nhiều cách biến hóa. Đó
là ngoại đạo chớ không phải Phật. Phật là tự tâm, đừng lầm lễ
lạy. Chữ Phật là tiếng Ấn Độ, theo xứ ta gọi là tánh giác. Giác nghĩa
là linh giác, ứng cơ tiếp vật, nhướng mày, liếc mắt, động tay máy chân đều
là tánh linh giác của mình. Tánh tức là tâm. Tâm tức là Phật. Phật tức
là Đạo. Đạo tức là Thiền.
Nội một chữ Thiền, phàm
thánh cũng khó luờng được. Nếu chẳng thấy tánh là không phải Thiền, dẫu
cho giảng được thiên kinh vạn luận, nếu chẳng thấy tánh cũng chỉ là phàm
phu. Đạo cả sâu mầu không thể dùng lời mà tỏ được hết. Vậy kinh điển căn
cứ nơi đâu mà có thể đến được?
Chỉ thấy bổn tánh,
dầu cho không biết một chữ cũng là thấy tánh, tức là thánh thể.
Vốn nó
là thanh tịnh, không tạp không nhơ. Có nói năng điều gì đều là thánh
nhơn từ tâm mà khởi dụng. Dụng và thể bổn lai là không. Danh
ngôn còn chẳng đến được, vậy mười hai bộ kinh bằng cứ nơi đâu mà
đến được?
Đạo vốn viên
thành, chẳng phải tu chứng. Đạo không phải sắc thinh, vi diệu khó
thấy. Chỉ như người uống nước, lạnh ấm tự biết mà thôi, không thể nói cho người
khác nghe được. Chỉ có Như Lai biết được, ngoài ra người,
trời các loại đều không hay biết. Vì trí phàm phu không đến
được nên mới chấp tướng, chẳng rõ tự tâm vốn vắng lặng rỗng
rang, nên vọng chấp tướng và tất cả pháp mới đọa ngoại đạo. Nếu
biết đều từ tâm sanh thì chẳng nên chấp, chấp là chẳng biết. Nếu thấy
bổn tánh thì mười hai bộ kinh chẳng qua chỉ là văn tự rỗng,
ngàn kinh muôn luận cốt để tỏ tâm; nếu nói ra liền khế hợp thì kinh
giáo dùng được vào đâu? Chí lý hết nói năng, kinh
giáo chỉ là từ ngữ, thiệt chẳng phải Đạo. Đạo vốn không nói năng, nói
năng là vọng.
Người tu đêm đến
có nằm mơ thấy lâu đài, cung điện, voi ngựa hoặc cây cối, rừng ao v.v… chớ nên
mống lòng tham đắm, vì hết thảy chảnh ấy đều là chỗ để thác sanh, điều này
phải hết sức chú ý. Lại nữa, khi lâm chung chẳng
nên chấp tướng thì chướng liền trừ. Nếu tâm nghi phát khởi là
bị ma nhiếp.
Pháp thân bổn
lai thanh tịnh không thọ lãnh một điều gì, chỉ vì mê
muội không hay biết nên vọng thọ báo, vì có tham đắm nên mất tự
do, nếu ngộ được bổn tâm thì chẳng đắm nhiễm.
Nếu là từ thánh
vào phàm thị hiện bao nhiêu tạp loại tự làm chúng sanh đó
là một việc khác. Nên thánh nhơn làm nghịch làm thuận đều được tự tại, tất
cả nghiệp chướng không trói buộc được, đối với bực ấy
có đại oai đức đã lâu cho nên tất cả nghiệp chướng đều
bị chuyển hết, thiên đường, điạ ngục hết thành vấn đề.
Còn phàm
phu thần thức mê muội, chớ không phải trong ngoài sáng suốt như
Thánh nhơn. Nếu có chỗ nghi thì chớ nên làm, làm là bị trôi lăn theo sanh
tử, khi ăn năn đã muộn. Nghèo cùng khốn khó đều từ vọng tưởng sanh,
nếu ai tỏ được tâm nầy thì nên lần lượt khuyên bảo lẫn nhau, chỉ làm
mà không trụ không chấp, là vào được tri kiến Như Lai.
Người mới phát tâm thần thức chưa
định, nếu khi nằm mơ thấy cảnh lạ hiện đều là tự tâm khởi, quyết
định chớ nghi, không phải ngoài tâm có cảnh. Nếu mơ thấy ánh sáng
như mặt trời, tức là tập nghiệp còn thừa sắp hết, tánh pháp
giới hiện. Đó là điềm sẽ thành Đạo, chỉ tự mình biết chẳng nên nói
cho ai nghe. Hoặc khi rong chơi trong vườn vắng lặng, đi đứng nằm
ngồi mắt thấy ánh sáng; hoặc trong đêm tối cũng thấy ánh sáng như ban ngày, đừng
có lấy làm lạ, đều là tự tâm muốn hiển hiện. Hoặc nằm mơ thấy
trăng sao tỏ sáng, đó cũng là điềm các duyên muốn dứt, cũng chớ nên nói cho ai
nghe. Còn như nằm mơ thấy đi trong tối tăm u ám, đó cũng là tự
tâm phiền não chướng nặng cũng chỉ nên tự biết.
Nếu đã thấy tánh,
chẳng cần phải đọc kinh niệm Phật, học rộng hiểu nhiều vô
ích, còn làm cho thần thức lại tối thêm. Kính giáo chỉ để nêu tâm, nếu
rõ được tâm đâu cần phải xem kinh giáo! Nếu là từ phàm vào thánh phải
nên ngừng nghiệp dưỡng thần, tùy phận qua ngày. Nếu là người nhiều sân nhuế làm
cho tánh sanh chướng đạo, tự gạt gẫm vô ích.
Thánh nhơn ở
trong sanh tử tự tại hiện ẩn ra vào chẳng định, tất cả nghiệp
chướng hết thành vấn đề. Hết thảy chúng sanh chỉ cần thấy bổn
tánh là tập nghiệp liền dứt, thần thức không bị mê; nhưng
phải là “tức thì liền nhận”.
Nếu muốn thật ngộ
đạo thì đừng chấp tất cả pháp, ngừng nghiệp dưỡng thần thì dư tập cũng
hết, tự nhiên minh bạch không cần dụng công. Ngoại đạo chẳng
rõ ý Phật, dụng công rất nhiều mà vẫn trái với ý thánh. Suốt
ngày bo bo niệm Phật tụng kinh mà vẫn mê muội bốn
tánh, chẳng khỏi luân hồi.
Phật là người rảnh
rang, đâu cần chật vật rộng cầu danh lợi. chỉ có người chẳng
thấy tánh mới đọc kinh niệm Phật, siêng học, sau thời hành đạo;
ngồi hòa chẳng nằm, học rộng nghe nhiều và cho đó là pháp Phật. Chúng
sanh như thế đều là người khinh pháp. Phật trước Phật sau chỉ nói thấy
tánh, các hành động đều là vô thường.
Nếu chẳng thấy
tánh mà vội cho rằng mình đã được đạo Vô thượng Bồ-Đề, đó là hạng tội nhơn
lớn. Mười vị đệ tử lớn của Phật, ngài A-nan là người học rộng bực
nhất mà với Phật còn không biết, chí học rộng nghe nhiều. Hết thảy Nhị
thừa ngoại đạo đều không biết Phật, chỉ biết dếm theo pháp tu chứng,
bị đọa vào trong nhân quả, đó là chúng sanh nghiệp báo chẳng
khỏi sanh tử trái với ý Phật rất xa, là kẻ khinh Phật đó! Trong
kinh có nói: Hạng chúng sanh ấy thuộc Nhứt-xiển-đề chẳng có lòng
tin; nếu có lòng tin thì người ấy là một vị Phật.
Nếu chẳng thấy
tánh, chớ nên bắt chước chê bai những người lương thiện, tự dối gạt vô
ích. Thiện ác rõ ràng, nhân quả phân minh, thiên đường
địa ngục chỉ ở trước mắt, người ngu chẳng biết hiện đọa vào địa
ngục tối tăm cũng không hay.
Chỉ vì nghiệp
nặng nên không thể tin, ví như người mù chẳng tin người ta nói
có ánh sáng, dầu có cắt nghĩa thế nào cũng không tin được, vì đã mù lấy
đâu mà phân biệt được sáng tối! Người ngu cũng thế. Hiện tiền đã
bị đọa vào súc sanh tạp loại, chỗ ở trong nghèo cùng hạ tiện, cầu sống
chẳng được, cầu chết cũng chẳng được. Tuy thọ khổ như thế nhưng dẫu có ai hỏi họ
cũng tự gọi mình được yên vui. Nên biết tất cả chúng sanh dẫu sanh
vào chỗ vui thật cũng không hay biết. Hạng người ác như thế, chỉ vì nghiệp
chướng quá nặng nên không thể phát lòng tin, không tự do được.
Nếu thấy được tự tâm là Phật chớ không phải ở tướng bên ngoài, thì dẫu bạch
y cư sĩ cũng vẫn là Phật. Nếu chẳng thấy tánh dù có đầu tròn vai
vuông cũng là ngoai đạo.
Hỏi: Cư
sĩ còn vợ con, dâm dục làm sao thành Phật được?
Đáp:
Chỉ nói thấy tánh; chẳng bàn đến dâm dục. Chỉ vì chẳng thấy tánh. Miễn được
thấy tánh thì dâm dục vốn tự rỗng lặng, tự nhiên dứt trừ,
không còn tham đắm nữa. Dẫu cho dư tập hãy còn cũng chẳng làm hại được.
Vì sao thế? Vì tự tánh vốn nó tự thanh tịnh. Tuy ở trong sắc
thân năm uẩn, tánh nó cũng vốn thanh tịnh không ô nhiễm. Pháp
thân bổn lai không thọ, không đói, không khát, không lạnh nóng, không bịnh
hoạn, không ân ái, không quyến thuộc, không khổ vui tốt xấu, không vắn
dài mạnh yếu, vốn không một vật có thể được. chỉ vì cố chấp cái thân
này nên mới có các tướng đói khát, lạnh nóng, bịnh chướng v.v… Nếu chẳng
chấp là được tự tại. Nếu trong sanh tử mà được tự tại, chuyển trở
lại các pháp, đừng để các pháp chuyển, cũng như Thánh nhơn, thì ở đâu lại
không yên? Nếu tâm có chỗ nghi, quyết định không thể tự tại, không
khỏi sanh tử luân hồi. Nếu thấy tánh thì dẫu bần cùng hạ tiện, đồ tể sát
sanh cũng vẫn thành Phật.
Hỏi: Đồ tể làm nghiệp sát
sanh làm sao thành Phật được?
Đáp:
Chỉ nói thấy tánh, chẳng nói tạo nghiệp. Dẫu sao có tạp nghiệp thế
nào, nghiệp cũng không thể trói buộc được. Từ lũy kiếp đến
giờ, chỉ vì chẳng thấy tánh nên mới có trôi lăn sau đọa vào địa ngục, sanh
tử; khi ngộ được bổn tánh sẽ không tạo nghiệp nữa. Nếu chẳng thấy tánh, niệm
Phật để khỏi nhân quả cũng không thể được, không luận
là sát sanh.
Nếu được thấy
tánh, tâm sát liền trừ, nghiệp sau cũng không thể trói buộc được.
Cho nên 27 vị tổ ở Tây Trúc chỉ truyền nhau tâm ấn. Nay ta đến cõi
nầy cũng chỉ truyền Đốn giáo Đại Thừa chính tâm mình
là Phật, chớ chẳng nói đến giữ giới, tinh tiến, khổ hạnh. Nhẫn đến
vào nước vào lửa, leo lên gươm đao, ăn một ngày một bữa, ngồi hoài chẳng nằm, hết
thảy những cái ấy đều là pháp hữu vi ngoại đạo.
Nếu rõ được cái
tánh linh giác chính là tánh Phật, Phật trước Phật sau chỉ
nói truyền tâm chớ không có pháp nào khác. Nếu rõ được tâm này dầu phàm
phu không biết một chữ cũng vẫn là Phật. Nếu chẳng rõ tự
tánh linh giác của mình, dẫu cho đem thân này tán ra tro bụi để tìm
Phật rốt cũng chẳng được gì.
Phật cũng gọi
là pháp thân, cũng gọi là bổn tâm. Tâm nầy không hình tướng,
không nhân quả, không gân cốt. Vốn như hư không, bắt chẳng được; chớ
không phải như vật chất, không phải như ngoại đạo nói. Tâm này
chỉ trừ Như Lai ra, hết thảy chúng sanh đều mê muội, đều
chẳng tỏ ngộ. Nhưng tâm này không phải lìa cái thân vật chất nầy. Nếu thân
tứ đại nầy mà lìa tâm là không có sự sống, làm sao có biết! Nhẫn đến nói
năng vận động, thấy nghe hay biết đều là cái động dụng của tâm.
Động là tâm động,
dụng là tâm dụng. Ngoài động dụng không tâm, ngoài tâm không động
dụng. Động chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa động. Lìa động không tâm,
lìa tâm không động. Động là tâm dụng, dụng là tâm động. Động tức tâm
dụng, dụng tức tâm động. Chẳng động chẳng dụng, dụng và thể vốn
không, không vốn không động. Động dụng do tâm tâm vốn không động.
Nên kinh nói: “Động
nhưng không chỗ động. Suốt ngày đi đến nhưng chưa từng đi đến, suốt ngày thấy
nhưng chưa từng thấy, suốt ngày cười nhưng chưa từng cười, suốt ngày nghe nhưng
chưa từng nghe, suốt ngày biết nhưng chưa từng biết, suốt ngày mừng nhưng chưa
từng mừng, suốt ngày đi nhưng chưa từng đi, suốt ngày đứng nhưng chưa từng đứng.”
Nên kinh nói: “bặt đường nói năng dứt hết nơi chỗ, thấy nghe hay biết vốn tự
tròn vắng, nhẫn đến giận mừng, đau ngứa nào khác người gỗ, chỉ vì suy tìm
cái đau ngứa không thể được”.
Nên kinh nói “nghiệp ác thì được báo khổ, nghiệp thiện thì được báo vui”; chớ
không phải chỉ sân bị đọa địa ngục, mừng được sanh thiên. Nếu rõ được
cái tánh mừng giận vốn không, chỉ đừng chấp nghiệp là giải thoát. Nếu chẳng
thấy tánh, giảng kinh quyết không bằng cứ. Nói
không sao cho hết, chỉ đại lược tà chánh đôi điều mà thôi.
[Tụng
rằng:]
Tâm tâm tâm
không thể tìm
Rộng cùng khắp pháp giới,
Hẹp chẳng chứa đầu kim
Ta vốn cầu tâm chẳng cầu Phật,
Biết rõ ba cõi rỗng không vật.
Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm
Chỉ tâm nầy, tâm nầy mới là Phật.
***
Ta vốn cầu tâm, tâm tự trì.
Cầu tâm chẳng được, tự tâm hay.
Tánh Phật chẳng từ ngoài tâm được
Tâm sanh là lúc tội sanh rồi.
Kệ
rằng:
Ta vốn đến cõi
nầy,
Truyền pháp cứu mê tình,
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành./.
Cốt lõi giáo lý của pháp môn thiền luôn nói về "Tâm"...Thành Phật hay đọa lạc đều do Tâm cả
ReplyDeleteQuả thực không sai.......chúc mừng bạn hữu đã đến giao lưu với blog.
ReplyDelete